95% tiền thuốc ARV từ nguồn viện trợ
TS. Nguyễn Hoàng Long, Cục trưởng Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế, hiện có khoảng
100.000 người nhiễm HIV đang được điều trị bằng thuốc kháng virus ARV (chiếm
khoảng 40% tổng số người nhiễm HIV). Khoảng 80% kinh phí cho phòng, chống
HIV/AIDS tại Việt Nam là được viện trợ từ các tổ chức quốc tế như Quỹ Toàn cầu,
PEPFAR, World Bank… 100% tiền thuốc methadone và 95% tiền thuốc ARV (thuốc kháng
virus HIV) là từ viện trợ. Mỗi năm, số tiền chi trả cho thuốc khoảng 420 tỉ
đồng, đa phần từ nguồn viện trợ của các tổ chức quốc tế.
Trong năm 2015, nguồn ngân sách Nhà nước chi cho thuốc ARV đã tăng lên 60 tỉ
đồng (so với các năm là 20 tỉ đồng) còn lại là được các tổ chức thế giới viện
trợ. Tuy nhiên, theo lộ trình, từ tháng 4/2016, nhà tài trợ sẽ không tiếp nhận
bệnh nhân mắc HIV mới, trong khi đó mỗi năm Việt Nam có khoảng 800 - 1.000 bệnh
nhân nhiễm HIV mới phải điều trị bằng thuốc ARV. Đến hết năm 2017, khoản viện
trợ này sẽ chấm dứt hoàn toàn, đồng nghĩa người bệnh sẽ phải tự bỏ chi phí điều
trị nếu không có bảo hiểm y tế. Việc điều trị của người nhiễm HIV/AIDS vì thế sẽ
gặp rất nhiều khó khăn.
Thuốc ARV giúp ức chế sự nhân lên của HIV, do đó kìm hãm sự phát triển của
virus, giảm nguy cơ chuyển sang AIDS và tử vong, bảo đảm sức khỏe. Nhờ dùng
thuốc này, chất lượng cuộc sống của người nhiễm HIV được cải thiện, có khả năng
lao động và làm việc như người bình thường. Theo ước tính của các chuyên gia,
với việc mở rộng điều trị ARV, gần 150.000 người Việt Nam đã tránh được tử vong
do AIDS trong giai đoạn 2001-2015.
Ngoài ra, điều trị bằng thuốc ARV còn giảm nguy cơ lây truyền HIV sang người
khác. Thuốc ARV kìm hãm lượng HIV trong máu ở mức thấp, do vậy làm giảm khả năng
lây truyền HIV qua quan hệ tình dục. Điều trị bằng ARV cũng giúp giảm lây truyền
HIV từ mẹ sang con.
Để đạt được những kết quả đó, TS. Nguyễn Hoàng Long cho biết, người nhiễm HIV
bắt buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc điều trị và duy trì điều trị
thường xuyên, suốt đời. Nếu không tuân thủ nguyên tắc điều trị hay điều trị gián
đoạn sẽ dẫn đến nguy cơ người nhiễm HIV chuyển sang AIDS.
Như vậy, khi thuốc điều trị hết miễn phí, không được uống thuốc đều đặn sẽ tạo
ra những chủng HIV kháng thuốc, người bệnh sẽ phải mua thuốc ARV theo phác đồ
bậc cao có giá thành cao gấp nhiều lần, rất tốn kém. Trong trường hợp không được
điều trị, số người nhiễm HIV mới trong cộng đồng sẽ tăng nhanh, dịch HIV/AIDS
không còn chỉ tập trung vào một số nhóm nguy cơ cao như hiện nay mà sẽ lan nhanh
ra cộng đồng, ảnh hưởng đến an sinh xã hội.
Dịch sẽ bùng phát nếu không được dự phòng
Cho ý kiến về nguy cơ bùng phát dịch bệnh khi nguồn viện trợ cắt giảm, GS. Trịnh
Quân Huấn, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế nhận định, nếu không được dự phòng thì chắc
chắn dịch sẽ bùng lên, bởi điều trị tốt tức là dự phòng tốt vì mỗi một ngày nếu
bệnh nhân không được điều trị thì virus HIV sẽ nhân lên đến 10 tỷ bản sao, tức
là lượng virus trong cơ thể rất lớn và nguy cơ lây từ người này sang người khác
cũng rất lớn. Nếu được điều trị tốt, liên tục thì trong cơ thể bệnh nhân chỉ còn
khoảng 1.000 bản sao, như vậy tỷ lệ lây lan rất thấp. Chính vì vậy, nếu không
được điều trị thì nguy cơ thứ nhất là dịch sẽ bùng phát trở lại như năm 2005.
GS. Trịnh Quân Huấn cho biết: “Năm 2005, mỗi năm chúng ta phát hiện hơn 30.000
ca nhiễm mới, trong khi hiện nay chúng ta phát hiện khoảng hơn 10.000 mỗi năm,
như vậy việc điều trị rất tốt. Nguy cơ thứ hai là số bệnh nhân do không được
điều trị chết tăng rất nhanh, bởi không được điều trị nên nguy cơ chết do nhiễm
trùng cơ hội do toàn bộ hệ thống miễn dịch cơ thể không còn đáp ứng được nữa. Vì
vậy, trong số 100.000 bệnh nhân không được điều trị chắc chắn sẽ chết. Nguy cơ
thứ 3 là nguy cơ kháng thuốc, vì điều trị lúc được lúc không. Việc điều trị lúc
được lúc không thì lượng virus trong bệnh nhân sẽ kháng lại tất cả loại thuốc mà
hiện nay việc tìm ra loại thuốc mới chưa có. Đấy là 3 nguy cơ mà chúng tôi nghĩ
rằng nếu không được điều trị tốt”.
Sử dụng nguồn tài chính hiệu quả
Để giải quyết vấn đề về nguồn lực và ứng phó với dịch HIV/AIDS khi nguồn viện
trợ từ các tổ chức quốc tế cắt giảm, từ góc độ cơ quan lập pháp, Phó Chủ nhiệm
Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội Đặng Thuần Phong cho biết, việc đầu tiên
cần làm là rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến phòng chống
HIV/AIDS và tính toán các lộ trình để thay đổi dần. Từ hướng nhận viện trợ ở chỗ
khác để làm cái này thì bây giờ phải tăng nội lực của chính mình, tức là từ
nguồn ngân sách quốc gia, sự tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội đối với
công tác phòng, chống HIV.
Quốc hội đã có các văn bản pháp luật như ở kỳ họp thứ 3, Quốc hội XII năm 2008
đã có nghị quyết 18, trong đó đẩy mạnh chính sách pháp luật về xã hội hóa nâng
cao chăm sóc sức khỏe nhân dân, quy định trích 30% ngân sách y tế dành cho y tế
dự phòng.
Theo đánh giá ở địa phương, khảo sát vấn đề này thì chỉ có một vài tỉnh làm được
điều này như Hải Phòng, TP.HCM, một số điểm nóng. Tuy nhiên, tập trung dự phòng
này không hẳn nghiêng về HIV mà cho ma túy, cho các loại bệnh truyền nhiễm khác
cho nên gần như các địa phương khác không tham gia được.
Quốc hội đã ủng hộ các cam kết của Chính phủ về các chỉ tiêu 90 -90 -90, nhưng
cam kết thì hành động thể hiện bằng việc phân bổ tính toán ngân sách. Cho nên,
hy vọng rằng Chính phủ sẽ trình cho phân bổ ngân sách năm 2016, được biết là
Chính phủ đã rút 16 chương trình mục tiêu quốc gia còn lại 2 chương trình là
Chương trình Xây dựng nông thôn mới và Chương trình giảm nghèo bền vững. Như
vậy, chương trình HIV/AIDS không còn là chương trình mục tiêu quốc gia nữa, nó
thể hiện ở chỗ Chính phủ cam kết mạnh nhưng chương trình mục tiêu quốc gia đã
rút đi và đưa thành chương trình mục tiêu của ngành y tế. Như vậy, ngân sách,
nguồn lực phải là tính toán hàng đầu, nguồn từ ngân sách trung ương và địa
phương phải cân đối phù hợp, tập trung vào đối tượng, tập trung vào vùng dịch
quan trọng để chúng ta lựa những mục tiêu ưu tiên. Bên cạnh đó, phải tính toàn
nguồn từ bảo hiểm y tế, căn bản là yếu tố quyết định giúp cho người nhiễm HIV
tiếp cận tất cả các dịch vụ bảo đảm cho điều trị và giảm tác hại.
Theo TS. Nguyễn Hoàng Long, thời gian sắp tới có thể nói là thời gian hết sức
khó khăn đối với công tác phòng chống HIV/AIDS. Một mặt, các nguồn việc trợ cắt
giảm và sẽ kết thúc nhanh, mặt khác thì ngân sách trong nước cũng có thay đổi
chủ trương của Chính phủ, Quốc hội, thế nên phòng chống AIDS ko còn được coi là
một trong những mục tiêu quốc gia nữa, mà chỉ là một dự án thuộc chương trình
mục tiêu về phòng, chống.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải tiếp tục cố gắng để duy trì, cũng như mở rộng hơn
nữa các hoạt động phòng chống HIV/AIDS, không chỉ duy trì ở mức hiện tại mà phải
tăng cường hơn nữa. Đặc biệt, là các hoạt động liên quan đến dự phòng, giám sát
dịch bệnh, phát hiện và tăng cường điều trị. Điều trị ở đây hết sức quan trọng,
vừa là cứu sống người bệnh, vừa là dự phòng lây nhiễm cho người khác.
Bên cạnh đó, tăng cường lồng ghép, phân cấp, lồng ghép các dịch vụ phòng, chống
HIV/AIDS vào trong hệ thống y tế sẵn có và phân cấp về địa phương, y tế cơ sở để
giảm chi phí, tăng cường hiệu quả, đồng thời tăng khả năng tiếp cận của người
dân đến các dịch vụ này.
“Việc cần làm trước mắt nữa là phải chuyển nhanh từ dựa vào nguồn viện trợ nước
ngoài sang sử dụng nguồn tài chính trong nước. Như Phó Chủ nhiệm Đặng Thuần
Phong đã cho biết, có hai nguồn chính mà chúng tôi trông chờ, trước hết là nguồn
ngân sách nhà nước trong đó có ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, đặc
biệt nguồn thứ hai phải phát triển nhanh là bảo hiểm y tế, đây là vấn đề cốt
yếu, đặc biệt với công tác điều trị. Trong thời gian sắp tới mà không mở được
bảo hiểm y tế, nhà nước không có tiền đầu tư thì có thể nói là hết sức nguy
hiểm, đại dịch có thể quay trở lại ngay”, TS. Nguyễn Hoàng Long nói.
Cuối cùng, cần tập trung vào những vùng, những địa bàn có dịch lớn, tỷ lệ dịch
cao để chúng ta sử dụng hiệu quả nguồn tài chính để giảm giàn trải trong thời
gian những năm tiếp theo.
Thùy Chi
Nguồn: tiengchuong.vn
[TT: TBC]