Đại diện Đoàn đánh giá cho biết,
lãnh đạo tại tất cả các huyện của 4 tỉnh mà đoàn đánh giá tới làm việc đều cam
kết triển khai dịch vụ và sẵn sàng sử dụng nguồn nhân lực hiện tại để thực hiện
mục tiêu 90-90-90.
Nhân lực và cơ sở hạ tầng có thể bảo đảm được việc lồng ghép dịch vụ xét nghiệm,
điều trị vào phòng labo và khoa khám chữa bệnh của bệnh viện. Tuy nhiên, hiện
dịch vụ HIV tại các huyện rất khác nhau. Một số huyện chưa có một dịch vụ nào
như Kỳ Sơn (Nghệ An), Nậm Pồ (Điện Biên). Cơ sở vật chất đối với Trung tâm y tế
huyện chưa bảo đảm việc thực hiện các xét nghiệm khẳng định nhiễm HIV như huyện
Mai Sơn, Vân Hồ, Bắc Yên (Sơn La); chỉ có 6/27 huyện thị tại Thanh Hóa có các
dịch vụ.
Bên cạnh đó, để triển khai mục tiêu 90-90-90, mỗi tỉnh đều có những khó khăn
riêng. Tại Nghệ An, việc tự kỳ thị của người bệnh, theo báo cáo của nhân viên y
tế cũng là những rào cản để đạt được chỉ tiêu về điều trị và duy trì quản lý ca
bệnh.
Tại Điện Biên, có khoảng 20 dân tộc thiểu số khác nhau. Trình độ học vấn trung
bình thấp dẫn đến hành vi bảo vệ sức khỏe và chủ động tìm kiếm dịch vụ chăm sóc
sức khỏe kém. Đây là một rào cản lớn để có thể thuyết phục nhiều bệnh nhân chấp
nhận theo dịch vụ điều trị.
Tại Sơn La, người sử dụng ma túy e ngại khi tiếp cận với dịch vụ tư vấn xét
nghiệm do sợ bị bắt đi cai nghiện, tình trạng tố giác người sử dụng ma túy vẫn
còn, ảnh hưởng lớn đến cả công tác xét nghiệm và điều trị HIV. Trong khi đó,
nhận thức của cán bộ xã, thôn bản về lợi ích của các can thiệp phòng, chống HIV
còn yếu. Hệ thống quản lý các ca nhiễm HIV hiện chưa phản ánh đúng số người
nhiễm HIV tại Sơn La. Còn tại Thanh Hóa, địa bàn rộng, rất khó khăn cho việc đi
lại.
Trước những khó khăn trên, Đoàn đánh giá đề nghị mở thêm các điểm cấp phát thuốc
tại các xã do tình hình đi lại khó khăn tại một số huyện. Đồng thời, nâng cao
năng lực cho cán bộ M&E tại các tuyến tỉnh, huyện và xã; nâng cao năng lực cho
các tổ chức xã hội dân sự về các vấn đề chính trong hệ thống thông tin chiến
lược.
Bên cạnh đó, hỗ trợ triển khai thực hiện tốt báo cáo chương trình, ca bệnh, thu
thập số liệu của các chương trình dịch vụ, nâng cao năng lực phân tích và sử
dụng số liệu; lồng ghép báo cáo chương trình do các tổ chức xã hội dân sự thực
hiện vào hệ thống báo cáo theo dõi, giám sát thường quy của chương trình/hệ
thống thông tin của các Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS tỉnh; bảo đảm chất lượng
số liệu của các chương trình dịch vụ HIV/AIDS; kiểm tra số liệu, phân tích và
phản hồi định kỳ về số liệu với các TT PC AIDS và các dự án thực hiện dịch vụ;
xây dựng và duy trì cơ sở dữ liệu của tỉnh, tiếp cận và sử dụng các nguồn dữ
liệu hiện có.
Cục phòng, chống HIV/AIDS chỉ đạo, điều phối các nguồn lực khác trong việc cung
cấp bao cao su, bơm kim tiêm cho người tiêm chích ma túy, người nhiễm HIV; cung
ứng sản phẩm xét nghiệm HIV, tải lượng HIV, các thuốc dự phòng bệnh nhiễm trùng
cơ hội.
Bên cạnh đó, các Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS tỉnh thực hiện mục tiêu chủ
động phối hợp với Dự án Quỹ Toàn cầu, Dự án VAAC – US.CDC và các nhà tài trợ
khác trên địa bàn tỉnh để đáp ứng kịp thời nhu cầu.
TS. Nguyễn Hoàng Long, Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS đề nghị: Mỗi tỉnh
cần có một kế hoạch thực hiện 90-90-90 cụ thể. Nâng cao tính làm chủ của địa
phương, hướng dẫn các địa phương tự xây dựng kế hoạch phù hợp với đặc điểm của
từng địa phương với sự hỗ trợ kỹ thuật từ các chuyên gia. Các chỉ tiêu cần tính
toán dựa vào thực tế tại địa phương và cần có cơ chế phối hợp giữa các nhà tài
trợ cũng như các địa phương để thống nhất về chuyên môn hỗ trợ, nội dung tập
huấn, thống nhất về mức chi, thống nhất nguồn tài chính…
Thùy Chi
Nguồn: tiengchuong.vn
[TT: TBC]