Là một trong những quốc gia cam kết thực hiện các
mục tiêu về phòng, chống HIV/AIDS của quốc tế, Việt Nam phấn đấu đến năm 2015
đạt được mục tiêu "Ba không" đó là "Không còn người nhiễm mới HIV", "Không còn
người tử vong do AIDS", "Không kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm
HIV/AIDS".
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cam kết, đến năm 2020 đạt được mục tiêu 90-90-90, đó
là 90% người nhiễm HIV biết tình trạng nhiễm HIV của mình, 90% người nhiễm HIV
được điều trị bằng thuốc kháng vi rút liên tục và 90% người được điều trị ARV
kiểm soát được tải lượng vi rút dưới ngưỡng ức chế.
Để đạt được các mục tiêu rất kỳ vọng trên, cần xác định có bao nhiêu người nhiễm
HIV trong từng thời điểm, bao nhiêu kinh phí để thực hiện công tác điều trị và
chưa kể đến nhu cầu về cán bộ y tế và cơ sở vật chất đáp ứng với nhu cầu tăng
bệnh nhân hàng năm.
Nhu cầu điều trị và kinh phí thiếu hụt cần huy động
Một thuật toán đã được các nhà lập kế hoạch áp dụng để ước tính số người nhiễm
HIV trong giai đoạn tới, căn cứ vào các giả định như tỷ lệ nhiễm HIV ở các quần
thể nguy cơ cao lây nhiễm HIV, giả định về độ bao phủ các dịch vụ phòng, chống
HIV/AIDS. Với mức tình hình dịch trung bình thì Việt Nam sẽ cần phải điều trị
ARV cho hơn 130.000 bệnh nhân vào năm 2016, tương tự là gần 160.000 vào năm
2017, hơn 180.000 vào năm 2018, gần 210.000 vào năm 2019 và hơn 220.000 bệnh
nhân vào năm 2020.
Nếu chúng ta mua thuốc với giá như hiện nay (mua sắm quốc tế với giá rẻ) và cam
kết của các nhà tài trợ được thực hiện đúng thì đến năm 2016 chúng ta cần hơn
150 tỷ đồng cho mua thuốc ARV, tương tự như vậy là cần 220 tỷ đồng vào năm 2017,
gần 760 tỷ đồng năm 2018, hơn 870 tỷ đồng năm 2019 và hơn 920 tỷ đồng năm 2020.
Những giải pháp trước mắt
Trong bối cảnh trên, Bộ Y tế đang đề xuất các giải pháp như sau: Chính phủ cần
có nguồn kinh phí đầu tư bền vững, tăng hàng năm từ ngân sách trung ương để mua
thuốc ARV. Nguồn kinh phí này có thể thuộc nguồn Chương trình phòng, chống
HIV/AIDS, tuy nhiên cần một tỷ trọng đủ lớn để đáp ứng thuốc ARV theo nhu cầu
điều trị. Đồng thời, phải căn cứ vào khả năng tài chính của từng địa phương để
hỗ trợ thuốc ARV.
Với những tỉnh, thành phố có khả năng cân đối ngân sách, đề nghị địa phương đó
bố trí đủ ngân sách cho điều trị bệnh nhân ở địa phương mình. Chính phủ chỉ hỗ
trợ kinh phí cho những tỉnh nghèo, đặc biệt khó khăn.
Bên cạnh đó, cần huy động người nhiễm HIV tham gia bảo hiểm y tế để các chi phí
liên quan đến điều trị HIV/AIDS được thanh toán thông qua bảo hiểm y tế. Để thực
hiện được cách chi trả này, các ngành liên quan cần có những hướng dẫn chi tiết
từ việc đấu thầu mua sắm thuốc ARV, danh mục thuốc hỗ trợ có bao gồm thuốc phác
đồ bậc 2 hay không, đơn vị đầu mối thực hiện và báo cáo...
Cần phải mua sắm thuốc giá rẻ cũng đã được đặt ra. Áp dụng những kinh nghiệm của
các nước trong khu vực, Bộ Y tế cũng đề xuất phương thức mua sắm thuốc tập trung
trên Trung ương và cung ứng cho từng địa phương. Thực hiện theo phương thức này
sẽ có giá thành tốt nhất, tuy nhiên gánh nặng nhân lực sẽ đặt tại trung ương.
Phương án mua sắm tập trung cấp quốc gia qua đơn vị mua sắm trung gian quốc tế
và đấu thầu rộng rãi quốc tế đang được Bộ Y tế tính đến đầu tiên. Vì phương án
này sẽ giúp duy trì được hệ thống cung ứng thuốc tập trung đang được Bộ Y tế vận
hành rất chuyên nghiệp hiện nay, giúp điều phối thuốc trên 364 cơ sở điều trị và
cấp phát thuốc ARV trên toàn quốc với số lượng bệnh nhân tại các cơ sở điều trị
rất khác nhau giữa các tỉnh, thành phố. Điều phối tập trung thuốc ARV là cần
thiết nhằm tránh tình trạng thiếu thuốc và thuốc quá hạn, đảm bảo duy trì điều
trị và chất lượng điều trị cho người bệnh.
Mặt khác, phương án này mua sắm với khối lượng thuốc lớn sẽ giúp đàm phán với
các nhà cung ứng để có giá thành cạnh tranh nhất. Ngoài ra, mua sắm tập trung
cấp quốc gia giúp giảm chi phí, thời gian, đầu mối tổ chức đấu thầu, tăng cường
tính chuyên nghiệp trong đấu thầu, góp phần tăng hiệu quả sử dụng nguồn Quỹ bảo
hiểm y tế và các nguồn kinh phí của Chương trình phòng, chống HIV/AIDS.
Việc mua sắm tập trung cấp quốc gia cũng giúp cho Quỹ bảo hiểm y tế kiểm soát
giá thuốc một cách thống nhất giữa các tỉnh, thành phố và đảm bảo cung ứng đầy
đủ chủng loại thuốc với chất lượng thuốc được đảm bảo cho các cơ sở điều trị có
số lượng bệnh nhân điều trị ít.
Như chúng ta đã biết, điều trị ARV là điều trị liên tục, suốt đời. Do vậy việc
cung ứng thuốc ARV cũng phải được thực hiện theo cách đặc biệt để đáp ứng với
những đặc trưng của người bệnh. Việc thay thế nguồn tài trợ mua thuốc phải tính
đến nhiều nguồn từ trung ương đến địa phương và theo một phương cách chi trả
thống nhất trên toàn quốc để người nhiễm HIV có cơ hội tiếp tục tiếp cận với
điều trị ARV để sống khỏe mạnh, lâu dài và phòng lây nhiễm HIV sang người khác.
Đây cũng là giải pháp trước mắt, hiệu quả nhất giúp Việt Nam kết thúc đại dịch
HIV/AIDS vào năm 2030.
Kim Thoa
Nguồn tiengchuong.vn
[TT: TBC]