Từ năm 2011, phương pháp điều trị HIV 2.0 đã bắt đầu
được thực hiện thí điểm tại Việt Nam. Phương pháp này được đánh giá đem lại
nhiều lợi ích cho người nhiễm HIV, đặc biệt giúp phát hiện sớm các trường hợp
phụ nữ mang thai nhiễm HIV để kịp thời điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ
sang con.
Mỗi năm có đến hàng nghìn trẻ sinh ra có phơi nhiễm HIV. Nguyên nhân chính là do
bà mẹ mang thai nhiễm HIV được phát hiện muộn và không được điều trị.
Trước khi thực hiện thí điểm mô hình điều trị HIV 2.0, các xã huyện Mường Ảng đã
phát hiện nhiều trường hợp trẻ nhiễm HIV do lây truyền từ mẹ. Đặc biệt, vào
những năm 2000-2007, khi đại dịch HIV/AIDS ở khu vực Mường Ảng bùng phát. Do
hiểu biết và ý thức phòng, chống HIV/AIDS của người dân còn hạn chế nên tình
trạng lây nhiễm HIV/AIDS trên địa bàn tỉnh khó kiểm soát, tỷ lệ sử dụng bao cao
su trong quan hệ tình dục thấp và việc sử dụng chung bơm kim tiêm của những
người nghiện chích ma túy còn phổ biến…
Tình trạng trên đã dẫn đến nhiều trường hợp phụ nữ bị nhiễm HIV mang thai khi
đến các cơ sở y tế sinh con mới phát hiện bệnh. Nhiều trẻ được phát hiện bệnh
rất muộn nên việc điều trị gặp nhiều khó khăn.
Tháng 9/2012, huyện Mường Ảng đã thực hiện thí điểm phương pháp điều trị HIV 2.0
tại 3 xã: Ảng Nưa, Ảng Cang và Mường Đăng. Qua gần 2 năm thực hiện, mô hình đã
cho thấy, phát hiện HIV và điều trị ARV sớm tăng thêm cơ hội sống cho người
nhiễm HIV. Đặc biệt, phát hiện HIV sớm ở phụ nữ mang thai, có thể giúp điều trị
dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con đạt kết quả tốt.
Từ khi triển khai mô hình điều trị HIV 2.0, rất nhiều cặp vợ chồng, bạn tình có
nguy cơ cao đã chủ động tìm đến Trạm Y tế xã yêu cầu được giúp đỡ. Nhiều cặp vợ
chồng nhiễm HIV đã được kết nối với điểm điều trị và tiếp tục được lấy mẫu máu
xét nghiệm tại Trung tâm Y tế huyện, đồng thời người bệnh sẽ được kết nối với cơ
sở điều trị để đăng ký quản lý và cung cấp các dịch vụ có liên quan, tránh mất
dấu bệnh nhân.
Điểm mới của mô hình điều trị 2.0 là phân cấp điều trị cho người bệnh tới y tế
cơ sở và lồng ghép với hệ thống y tế hiện hành. Điều này, giúp bệnh nhân giảm
chi phí đi lại và tiết kiệm được nguồn nhân lực trong điều trị phòng chống
HIV/AIDS. Thực hiện mô hình này, 100% số thai phụ được quản lý sẽ được theo dõi,
xét nghiệm trong 3 tháng đầu của thai kỳ.
Bên cạnh đó, mô hình điều trị HIV 2.0 thực hiện ở cơ sở y tế huyện cũng mang lại
nhiều hiệu quả cao, bởi có thể lồng ghép dễ dàng với các chương trình khác do hệ
thống y tế cơ sở thực hiện, như: Chương trình quản lý thai nghén của trạm y tế
các xã, chương trình giám sát dịch HIV/AIDS và can thiệp giảm tác hại dự phòng
lây nhiễm…
Đối với những người sử dụng ma túy nhiễm HIV, người bệnh còn được hỗ trợ tham
gia các dịch vụ kết nối chăm sóc điều trị ARV với điều trị bằng Methadone, trao
đổi bơm kim tiêm, cấp phát bao cao su.
Theo số liệu thống kê của Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS huyện, tính đến thời
điểm hiện tại Trạm Y tế xã Ảng Cang đã xét nghiệm chẩn đoán cho trên 950 trường
hợp, trong đó phát hiện 26 trường hợp dương tính với HIV. Các trường hợp này đã
được điều trị phương pháp 2.0 và đã có những em bé khỏe mạnh được sinh ra từ
người mẹ nhiễm HIV.
Đại diện Trung tâm Y tế huyện Mường Ảng cho biết, tất cả các phụ nữ có thai
dương tính với HIV trên địa bàn huyện đều được điều trị phương pháp 2.0 này. Sau
đó, cả mẹ và con thai phụ sẽ được điều trị thuốc ngay từ đầu. Từ ngày các bà mẹ
tham gia uống thuốc thì xét nghiệm lại chưa có trẻ nào sinh ra dương tính với
HIV.
Do được phân cấp tới hệ thống y tế cơ sở nên mô hình điều trị HIV 2.0 đã phát
huy rất tốt hiệu quả việc quản lý và điều trị đối với các bệnh nhân nhiễm HIV,
đặc biệt là đối với trường hợp bà mẹ mang thai nhiễm HIV. Phương pháp này đồng
thời cũng làm giảm đáng kể nguy cơ lây truyền HIV cho trẻ em, góp phần thực hiện
cam kết của Việt Nam với Đại hội đồng Liên Hợp Quốc là Hướng tới loại trừ lây
truyền HIV từ mẹ sang con vào năm 2015.
Trà My
Nguồn tiengchuong.vn
[TT: TBC]